Nghiệm pháp gắng sức là gì? Các công bố khoa học về Nghiệm pháp gắng sức

Nghiệm pháp gắng sức là một nguyên tắc trong phật giáo, nghĩa là cố gắng và nỗ lực hết sức trong việc tu hành và trau dồi tâm hồn. Theo đó, con người cần tự phê...

Nghiệm pháp gắng sức là một nguyên tắc trong phật giáo, nghĩa là cố gắng và nỗ lực hết sức trong việc tu hành và trau dồi tâm hồn. Theo đó, con người cần tự phê phán, tự cải thiện và không ngừng rèn luyện bản thân để đạt đến sự giác ngộ và giải thoát khỏi kiếp sinh tử. Nghiệm pháp gắng sức cũng đặt trọng tâm vào quá trình học hỏi, chánh niệm, đấu tranh với tâm sinh lý và các hạt tác động của quả báo xấu trong cuộc sống hàng ngày. Nó đại diện cho sự cố gắng của con người để thoát khỏi khổ đau và đạt đến thanh tịnh và hạnh phúc tối cao.
Nghiệm pháp gắng sức bao gồm những yếu tố cơ bản sau:

1. Tự phê phán: Nghiệm pháp gắng sức yêu cầu con người tự nhận thức rõ về những hạn chế, khuyết điểm và lỗi lầm của mình. Thông qua việc tự phê phán, người tu hành có khả năng tự cải thiện và phát triển bản thân.

2. Tự cải thiện: Nghiệm pháp gắng sức khuyến khích con người không ngừng nỗ lực để rèn luyện và phát triển tâm hồn. Điều này bao gồm việc áp dụng các phương pháp hồi hướng, quán niệm, thiền định và rèn kỷ luật tâm linh để tiêu diệt các ẩn chứa của tâm.

3. Đấu tranh với tâm sinh lý: Nghiệm pháp gắng sức yêu cầu con người chấp nhận và đối mặt trực tiếp với tâm sinh lý, tức là mọi suy nghĩ, ham muốn, cảm xúc và hành động tự phụ. Bằng cách thống trị và kiểm soát tâm sinh lý, người tu hành có thể tiêu diệt những yếu tố có hại và tiến gần hơn đến giải thoát.

4. Học hỏi: Nghiệm pháp gắng sức khuyến khích con người tìm hiểu và nghiên cứu các nguyên tắc pháp lý và triết lý của phật giáo. Bằng cách hiểu rõ hơn về đạo pháp và sự thật, người tu hành có thể áp dụng những kiến thức này vào cuộc sống hàng ngày để đạt được sự giác ngộ và phát triển tâm hồn.

5. Chánh niệm: Nghiệm pháp gắng sức tập trung vào việc sống trong hiện tại và giữ tâm trạng tỉnh thức và chánh niệm. Bằng việc dừng chân, lắng nghe và thấu hiểu sâu sắc về mỗi khoảnh khắc trong cuộc sống, người tu hành có thể thoát khỏi sự mê hoặc và sống một cuộc sống có ý nghĩa.

Nghiệm pháp gắng sức không chỉ đơn thuần là việc cố gắng và nỗ lực, mà còn là việc chấp nhận sự thực và thực hiện những thay đổi tích cực để phát triển tâm hồn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nghiệm pháp gắng sức":

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG DUNG NẠP VỚI GẮNG SỨC Ở CÁC BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỆN TÂM ĐỒ GẮNG SỨC THẢM CHẠY
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1B - 2023
Mục tiêu: So sánh khả năng dung nạp với gắng sức ở các bệnh nhân đái tháo đường type 2 với khả năng dung nạp với gắng sức của người bình thường bằng phương pháp điện tâm đồ gắng sức thảm chạy và nghiên cứu mối tương quan giữa nồng độ đường máu tĩnh mạch lúc đói với khả năng dung nạp với gắng sức ở các bệnh nhân đái tháo đường type 2. Đối tượng và phương pháp: Phương pháp nghiên cứu hồi cứu trên 42 bệnh nhân đái tháo đường type 2 và nhóm chứng gồm 42 người không có đái tháo đường, cùng tuổi, cùng giới được chỉ định làm nghiệm pháp gắng sức điện tâm đồ với thảm chạy từ tháng 1/2014 đến tháng 12/2018. Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều không có các bằng chứng về bệnh lý tim mạch sau khi được thăm khám lâm sàng và làm các xét nghiệm thăm dò chức năng tim mạch. Nghiệm pháp gắng sức điện tâm đồ với thảm chạy được thực hiện theo quy trình Bruce sửa đổi. Kết quả: Các bệnh nhân đái tháo đường có tuổi trung bình 57 ± 21 (36-78 tuổi), nam 28 bệnh nhân (66,7%), nữ 14 bệnh nhân (33,3%). Các bệnh nhân đái tháo đường type 2 có tần số tim lúc nghỉ cao hơn (84,2±16,7 so với 71,3±12,5 chu kỳ/phút, p<0,05), vòng bụng trung bình lớn hơn (93,4 ±10,2 so với 81,3 ± 9,7 cm, p<0,05), chỉ số khối cơ thể trung bình lớn hơn (25,6 ± 2,1 so với 20,5 ± 1,2 kg/m2, p<0,05), tỷ lệ rối loạn lipid máu cao hơn (66,7% so với 26,2%, p<0,01), tỷ lệ tiền sử gia đình có bệnh ĐMV sớm cao hơn (11,9% so với 2,4%, p<0,05), nồng độ đường máu tĩnh mạch lúc đói cao hơn so với nhóm chứng (8,8 ± 2,3 so với 4,7 ± 1,2, p<0,05). Về khả năng dung nạp với gắng sức, các bệnh nhân đái tháo đường type 2 có thời gian gắng sức ngắn hơn (612,4 ± 187,1 so với 813,4 ± 213,2 giây, p<0,01), tỷ lệ % đạt 85% tần số tim lý thuyết tối đa thấp hơn (76,2% so với 95,2%, p<0,01), khả năng gắng sức tối đa thấp hơn (6,5 ± 1,1 so với 8,9 ± 2,7, p<0,05), mức tiêu thụ oxy tối đa thấp hơn (31,5 ± 10,1 so với 45,2 ± 11,3 ml/kg/ph, p<0,01) và có tỷ lệ % đáp ứng kém về nhịp tim cao hơn (23,8% so với 4,8%, p<0,01). Ở các bệnh nhân đái tháo đường type 2, có mối tương quan tuyến tính nghịch mức độ vừa giữa đường máu tĩnh mạch lúc đói và thời gian gắng sức (r = -0,49, p = 0,02), khả năng gắng sức tối đa (r =-0,52, p = 0,03) và mức độ tiêu thụ oxy tối đa (r = -0,55, p = 0,02). Kết luận: Các bệnh nhân đái tháo đường type 2 có tần số tim lúc nghỉ cao hơn và giảm khả năng dung nạp với gắng sức so với người không đái tháo đường. Ở các bệnh nhân đái tháo đường type 2, nồng độ đường máu tĩnh mạch lúc đói có mối tương quan tuyến tính nghịch mức độ vừa với thời gian gắng sức, khả năng gắng sức tối đa và mức tiêu thụ oxy tối đa.
#Đái tháo đường type 2 #nghiệm pháp gắng sức #khả năng gắng sức #tiêu thụ oxy tối đa
GIÁ TRỊ NGHIỆM PHÁP GẮNG SỨC ĐIỆN TÂM ĐỒ TRONG PHÂN TẦNG NGUY CƠ BỆNH NHÂN WPW KHÔNG TRIỆU CHỨNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá giá trị nghiệm pháp gắng sức (Exercise Stress Test - EST) điện tâm đồ trong phân tầng nguy cơ bệnh nhân Wolff-Parkinson-White (WPW) không triệu chứngbằng đối chiếu với thăm dò điện sinh lý (Electrophysiology Studies - EPS). Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu tiến hành trên 35 bệnh nhân WPW không triệu chứng từ tháng 7 năm 2020 đến tháng 8 năm 2021 tại Viện Tim mạch Việt Nam, bệnh viện Bạch Mai. Các bệnh nhân được phân tầng nguy cơ bằng EST; kết quả sau đó được đối chiếu với kết quả EPS để đánh giá giá trị của nghiệm pháp. Các thông số chính được xác định bao gồm: độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán dương tính, giá trị dự đoán âm tính. Kết quả: 34/35 bệnh nhân hoàn thành EST khi nhịp tim đạt tần số theo yêu cầu, 1 bệnh nhân phải ngừng EST do xuất hiện cơn tim nhanh, 6 bệnh nhân được phân tầng nguy cơ thấp bằng EST. EPS xác định 10 bệnh nhân là nguy cơ cao, 7/10 bệnh nhân này gây được cơn tim nhanh vào lại nhĩ thất (Atrioventricular Reentry Tachycardia - AVRT). Đối chiếu với kết quả EPS, EST có độ nhạy 90%, độ đặc hiệu 20%, giá trị dự đoán dương tính 31,1%, giá trị dự đoán âm tính 83,3% trong phân tầng nguy cơ bệnh nhân WPW không triệu chứng. Kết luận: EST là khả thi và an toàn đối với các bệnh nhân WPW không triệu chứng; EST trong phân tầng nguy cơ bệnh nhân WPW không triệu chứng có độ nhạy và giá trị dự đoán âm tính cao, độ đặc hiệu và giá trị dự đoán dương tính thấp.
#Nghiệm pháp gắng sức #Wolff-Parkinson-White (WPW) #thăm dò điện sinh lý
SO SÁNH THỜI GIAN TRƠ ĐƯỜNG PHỤ ƯỚC TÍNH BẰNG NGHIỆM PHÁP GẮNG SỨC ĐIỆN TÂM ĐỒ VÀ XÁC ĐỊNH BẰNG THĂM DÒ ĐIỆN SINH LÝ TIM Ở BỆNH NHÂN WPW KHÔNG TRIỆU CHỨNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Nghiên cứu mối tương quan giữa thời gian trơ hiệu quả theo chiều xuôi (AP AERP) ước tính bằng nghiệm pháp gắng sức (EST) điện tâm đồ với giá trị AP AERP xác định bằng thăm dò điện sinh lý (EPS) ở bệnh nhân Wolff – Parkinson - White (WPW) không triệu chứng. Nghiên cứu tiến hành trên 35 bệnh nhân WPW không triệu chứng. Các bệnh nhân được phân tầng nguy cơ bằng EST: các bệnh nhân nguy cơ thấp sẽ ước tính AP AERP dựa vào tần số tim tại thời điểm tiền kích thích đột ngột biến mất, các bệnh nhân nguy cơ cao ước tính AP AERP dựa vào tần số tim tối đa bệnh nhân đạt được khi tiến hành nghiệm pháp. Các đối tượng nghiên cứu sau đó được tiến hành EPS xác định AP AERP. Các giá trị AP AERP thu được từ 2 phương pháp được so sánh và kiểm định. Có 6 bệnh nhân được phân tầng nguy cơ thấp bằng EST, AP AERP ước tính bằng EST của các bệnh nhân này là 469 ± 84 ms, không khác biệt có ý nghĩa thống kê so với giá trị xác định bằng EPS là 451± 128 ms. 29 bệnh nhân được phân tầng nguy cơ cao bằng EST, AP AERP ước tính bằng EST là 379 ± 31 ms, dài hơn có ý nghĩa thống kê so với giá trị xác định bằng EPS là 298± 77 ms.Các bệnh nhân WPW không triệu chứng khi làm EST có kết quả không phải phân tầng nguy cơ thấp cần được thăm dò điện sinh lý tim và triệt đốt đường dẫn truyền phụ nhĩ thất.
#Trơ hiệu quả theo chiều xuôi #nghiệp pháp gắng sức #thăm dò điện sinh lý #WPW không triệu chứng
KHẢ NĂNG GẮNG SỨC CỦA BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP SAU CAN THIỆP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá khả năng gắng sức của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp sau can thiệp tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Kết quả cho thấy khả năng gắng sức của bệnh nhân sau can thiệp nhồi máu cơ tim cấp là khá tốt: HATT khi gắng sức tối đa trung bình 161,2 ± 20,3 (mmHg), HATTr khi gắng sức tối đa trung bình 94,0 ± 8,6 (mmHg), tần số tim tối đa gắng sức trung bình 149,04 ± 23,31 (ck/phút), PRP trung bình 23,696 ± 5274, HRR trung bình 14,38± 7,16, HRR ≥ 12 chiếm 73%, MET max trung bình 9,7 ± 2,9, thời gian gắng sức (phút) 12,21 ± 3,43. Nghiệm pháp gắng sức của người bệnh sau can thiệp nhồi máu cơ tim cấp là an toàn, không có biến cố nguy hiểm theo dõi trong và sau quá trình gắng sức tại thời điểm bệnh nhân tái khám 1 tháng.
#nhồi máu cơ tim cấp sau can thiệp #nghiệm pháp gắng sức #MET
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG GẮNG SỨC BẰNG NGHIỆM PHÁP GẮNG SỨC ĐIỆN TÂM ĐỒ Ở BỆNH NHÂN NHỊP CHẬM XOANG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá khả năng gắng sức bằng nghiệm pháp gắng sức điện tâm đồ ở bệnh nhân nhịp chậm xoang và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến khả năng gắng sức ở nhóm bệnh nhân này. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Tim Việt Nam và Bệnh viện Tim Hà Nội từ tháng 1/2020 đến tháng 9/2021. 60 bệnh nhân có nhịp chậm xoang dưới 50 lần/phút biểu hiện trên điện tâm đồ bề mặt khi nghỉ được đưa vào nghiên cứu. Thiết kế nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang. Các bệnh nhân lựa chọn vào nghiên cứu được đánh giá lâm sàng, cận lâm sàng, và được đánh giá khả năng gắng sức bằng nghiệm pháp gắng  sức điện tâm đồ. Kết quả nghiên cứu: Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 55,12±13,08 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ: 1,50/1. Bệnh nhân trong nghiên cứu có khả năng gắng sức tối đa là 7,78±3,59 METs. Tỷ lệ không đạt 85% khả năng gắng sức tối đa dự đoán là 53,3%. Có 53,3% bệnh nhân mất khả năng điều biến tần số tim (CI<0,8). Trong phân tích hồi quy tuyến tính đa biến, các yếu tố tuổi, giới, mắc rối loạn nhịp chậm có tương quan chặt chẽ với khả năng gắng sức của bệnh nhân theo phương trình: Khả năng gắng sức tối đa (METs) = 18,857 – 0,637 x Tuổi (năm) – 0,238 x Giới (Nam = 0; Nữ = 1) – 2,696 x Mắc rối loạn nhịp chậm. (R2 hiệu chỉnh = 0,793; p < 0,001).
#Khả năng gắng sức #Nghiệm pháp gắng sức điện tâm đồ #Nhịp chậm xoang
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA THIẾU SẮT TRÊN KHẢ NĂNG GẮNG SỨC VÀ NT-PROBNP Ở BỆNH NHÂN SUY TIM CÓ PHÂN SUẤT TỐNG MÁU GIẢM
Mục tiêu: Khảo sát ảnh hưởng của thiếu sắt lên NT-proBNP và khả năng gắng sức dưới mức tối đa thông qua nghiệm pháp đi bộ 6 phút (6MWT) trên bệnh nhân suy tim có phân suất tống máu giảm (HFrEF). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ 12/2021 đến 4/2023, tổng cộng 93 bệnh nhân HFrEF thỏa điều kiện nghiên cứu, khi bệnh nhân đạt trạng thái suy tim ổn định sẽ được thực hiện 6MWT, NT-proBNP, ferritin, độ bão hòa transferin (TSAT). Suy giảm khả năng gắng sức dưới mức tối đa được định nghĩa là 6MWT < 300m. Thiếu sắt được định nghĩa là Ferritin < 100 mcg/L hoặc Ferritin 100 – 299mcg/L và TSAT < 20%. Kết quả: NT-proBNP ở nhóm thiếu sắt cao hơn so với nhóm không thiếu sắt có ý nghĩa thống kê với trung vị lần lượt là 3447 và 1620 pg/nL (p=0,004). Phân tích đơn biến cho thấy tỉ lệ bệnh nhân suy giảm khả năng gắng sức khi thực hiện 6MWT ở nhóm thiếu sắt cao hơn so với nhóm không thiếu sắt (51,4% và 31,0% với p=0,05). Phân tích đa biến cho thấy thiếu sắt liên quan độc lập với suy giảm khả năng gắng sức (OR 3,247, p=0,041). Kết luận: Ở bệnh nhân HFrEF, thiếu sắt có mối liên quan với suy giảm khả năng gắng sức dưới mức tối đa và nồng độ NT-proBNP ở nhóm thiếu sắt cao hơn nhóm không thiếu sắt.
#Gắng sức dưới mức tối đa #suy tim #nghiệm pháp đi bộ 6 phút.
Đánh giá khả năng gắng sức ở bệnh nhân suy tim phân suất tống máu bảo tồn bằng nghiệm pháp gắng sức thảm chạy
Mục tiêu: Đánh giá khả năng gắng sức ở bệnh nhân suy tim phân suất tống máu bảo tồn bằng bài tập vận co cơ động trên thảm chạy. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành trên 50 bệnh nhân được chẩn đoán suy tim phân suất tống máu bảo tồn điều trị tại Viện Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch Mai. Đánh giá sự thay đổi về tần số tim, mức độ gắng sức và mức tiêu thụ oxy tối đa khi gắng sức và sau gắng sức bằng thảm chạy. Kết quả: Bệnh nhân có độ tuổi trung bình 50 ± 13,9 (24-71 tuổi) với phân suất tống máu trung bình 56,6 ± 3,2% được thực hiện bài tập trên thảm chạy trong thời gian trung bình 1041 ± 318 giây. Kết quả cho thấy mức độ gắng sức trung bình của các bệnh nhân là 13,0 ± 3,9 (METs) với mức tiêu thụ oxy tối đa VO2 max là 62,3 ± 19,9 (ml/kg/phút). Sau gắng sức, giá trị hồi phục nhịp tim sau 1 phút là 29,6 ± 14,5 (nhịp/phút). Khả năng gắng sức có tương quan tuyến tính với giá trị phục hồi nhịp tim với r = 0,436 (p<0,05). Kết luận: Giá trị hồi phục nhịp tim trên đối tượng người Việt Nam có suy tim phân suất tống máu bảo tồn đo được sau gắng sức 1 phút có tương quan tuyến tính thuận với khả năng gắng sức METS. Đồng thời, chưa tìm thấy mối liên hệ giữa giá trị hồi phục nhịp tim với các yếu tố khác như giới, phân suất tống máu EF và mức tiêu thụ oxy tối đa.
#Suy tim phân suất tống máu bảo tồn #khả năng gắng sức #phục hồi nhịp tim #mức tiêu thị oxy tối đa #nghiệm pháp gắng sức
Tiêu hao năng lượng ở người khỏe mạnh khi thực hiện nghiệm pháp gắng sức tim mạch hô hấp
Mục tiêu: Xác định tiêu hao năng lượng (THNL) khi thực hiện nghiệm pháp gắng sức tim mạch hô hấp (CPET) trên người khỏe mạnh 20-60 tuổi và xác định mối liên quan giữa thời gian vận động và công suất vận động với THNL khi thực hiện CPET ở nhóm đối tượng trên. Phương pháp: Nghiên cứu tiến hành trên 32 đối tượng khoẻ mạnh. Các đối tượng thực hiện CPET và phân tích các chỉ số THNL, thời gian vận động và công suất vận động trong giai đoạn nghỉ ngơi, giai đoạn khởi động, giai đoạn gắng sức và giai đoạn hồi phục trên hệ thống máy đo tim mạch hô hấp gắng sức CPEX-1 (Inter Reha, Nhật Bản). Kết quả và kết luận: THNL chung cho hai giới khi thực hiện CPET trong giai đoạn nghỉ ngơi là 1,03 ± 0,30 MET, giai đoạn khởi động là 1,97 ± 0,74 MET, giai đoạn gắng sức là 3,48 ± 1,78 MET, giai đoạn hồi phục là 4,57 ± 2,26 MET và THNL tối đa là 4,75 ± 2,17 MET. Thời gian vận động và THNL trong giai đoạn khởi động tương quan tuyến tính nghịch biến; công suất vận động và THNL trong giai đoạn nghỉ ngơi, gắng sức và hồi phục tương quan tuyến tính đồng biến có ý nghĩa thống kê ở khoảng tin cậy 95%.
#Tiêu hao năng lượng #nghiệm pháp gắng sức tim mạch hô hấp
Tổng số: 8   
  • 1